A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật: Sự khác biệt và ý nghĩa

A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật: Sự khác biệt và ý nghĩa
Video a di đà phật hay a mi đà phật

A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật?

Hiện nay, có nhiều Phật tử đang hoang mang không biết nên niệm A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật (?). Nếu thay từ “Di” thành “Mi,” liệu có ảnh hưởng đến tất cả các tên gọi Phật như Mật chú Vãng Sanh Chơn Ngôn, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật…? Kết quả của một số tranh luận đã tạo ra sự phân chia thành hai nhóm trong Pháp môn Tịnh độ: Nam mô A Di Đà Phật và Nam mô A Mi Đà Phật.

Sự xuất phát này có tác động không nhỏ đến thành tựu tu hành của đại chúng hiện tại cũng như trong tương lai. Vì vậy, những hành giả tu hành chơn chánh, mong muốn đạt Thiện – Tín tỏ tường Chánh giáo và an tâm tu niệm.

Trước khi đi vào phân tích chi tiết, xin trích lại nguyên văn tự thuật của Hòa thượng Thích Trí Tịnh trong quyển Hương Sen Vạn Đức như sau:

“… Tại sao lại niệm ‘Nam mô A Mi Đà Phật?’

Sáu chữ hồng danh đây nguyên là Phạn âm (tiếng Thiên Trúc).

Hai chữ đầu (Nam mô) nguyên âm là Namo, ta hay đọc liền vần Nam mô, là lời tỏ lòng thành kính, có nghĩa là Quy y (về nương) và Quy mạng (đem thân mạng gởi về).

Chữ thứ sáu (Phật) nguyên âm là Buddha (Bụt Đa hay Bụt Thô), ta hay đọc gọn là Phật, chỉ cho đấng hoàn toàn giác ngộ (Đấng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Ba chữ giữa (A Mi Đà) là biệt danh của đấng Cực Lạc giáo chủ, dịch nghĩa là Vô Lượng (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ). Như trong kinh, đức Bổn Sư tự giải thích rằng: “Đức Phật ấy quang minh vô lượng, soi suốt các cõi nước ở mười phương không bị cách ngại. Đức Phật ấy và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên vô số kiếp“.

Trong Quán Kinh nói: “Nếu người chí tâm xưng danh hiệu của Đức Phật đây, thời trong mỗi niệm diệt được tội sanh tử trong 80 ức kiếp và được vãng sanh…”.

Trong Kinh Chư Phật Hộ Niệm nói: “Nếu người nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà chấp trì trong một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thời được thành tựu nhiều thiện căn phước đức. Đức Phật ấy và Thánh chúng sẽ hiện đến nghênh tiếp…“.

Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Nếu người chuyên xưng danh hiệu thời đặng chứng Nhất Hạnh Tam muội và chóng thành Phật…”.

Từ những lời của Đức Bổn Sư Thích Ca, đấng chân thật ngữ phán trên đây, thỉnh thấy rằng ba tiếng hồng danh của đức Giáo chủ Cực Lạc có những năng lực bất khả tư nghị. Muốn được kết quả to tát như lời trong kinh, hành giả cần chí tâm xưng niệm, và phải xưng niệm đúng âm vận, chớ không nên như người Pháp gọi Chợ Lớn là Sôlông, hay Bà Rịa là Baria.

Ba chữ A-mi-Đà nguyên là Phạn âm. Người Taọ đọc là A-mi-thô, và họ tụng xuôi là Á-mi-Thồ. Danh hiệu ấy truyền qua xứ Việt ta bằng chữ Tàu, biên sẵn trong các pho kinh sách Tàu. Người Việt ta cứ theo lệ phổ thông, chữ đâu đọc đó nên đọc là A-di-đà. Như đọc Nã Phá Luân để kêu Hoàng đế Napoleon (Na-po-lê-ông), cùng đọc Ba-Lê để kêu kinh đô Paris (Pari).

Với sự phiên âm bằng chữ Tàu, người Tàu đọc giống gần với nguyên âm, mà người Việt ta đọc sai quá xa. Gía như ta gặp hoàng đế Pháp mà gọi ông ta là Nã Phá Luân thì thật là đáng buồn cười. Với A-di-đà để gọi đức Giáo chủ Cực Lạc cũng theo lệ đó.

Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam Mô A Di Đà Phật, khi chuyên niệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữa lúc đó tiếng “Di” là chủ của sự chướng. Vì thế, tôi mới để ý đến chính âm vận của sáu tiếng hồng danh. Đồng thời lời của Tổ Vân Thê trong sớ sao nói: “Hồng danh Nam mô A-mi-đà Phật toàn là tiếng Phạn, chuyên trì không quên, thời cùng với pháp trì chú của Mật tông đồng nhau”, lại thúc đẩy tôi vào sự khảo cứu.

Với vần La Tinh, người Anh ghép Amita, mà tôi được thấy ở bộ Phật Học Đại Tự Điển.

Tôi đem ba chữ A-mi-đà ra hỏi, thời các Sư Tàu cũng như Cư sĩ Tàu đều đọc gằn từng tiếng một trước mặt tôi: A-mi-thô.

Hai tiếng đầu “A”và “Mi” đã nhất định, và đồng thời quyết chắc đọc “Di” là sai. Tôi còn thắc mắc ở tiếng thứ ba, vì nếu đọc Amita như vần Anh, cùng A-mi-thô như người Tàu thời với tiếng Việt có hai điều bất tiện:

  1. Nghe không nghiêm và không êm.
  2. Khác với thông lệ từ xưa.

Một học giả Bali và Phạn ngữ giải thích: chữ “đà” của Tàu dùng phiên âm Phạn ngữ có hai giọng:

  1. Thô như danh từ “Bụt Thô” mà người tàu đọc xuôi là “Bù Thồ”.
  2. Đa cũng như danh từ “Bụt Đa” (Buddha)

Với giọng “đa” để đọc chữ “thô”, nó mở đường cho tôi ghép 3 chữ lại: A-mi-đa và theo cách đọc xuôi đánh dấu huyền: A-mi-đà.

Ghép luôn cả sáu tiếng Nam mô A-mi-đà Phật, tôi nhận thấy rằng tránh khỏi cái lỗi quá khác với nguyên Âm, dù vẫn chưa được hoàn toàn, nhưng có thể gọi là nhiều phần đúng và không quá cách biệt với cách đọc phổ thông theo cổ lệ, vì trong sáu tiếng đây chỉ có đổi “di” thành “mi” mà thôi.

Sau khi tham cứu như trên xong, tôi bắt đầu chuyên chí niệm Nam mô A-mi-đà Phật, và cũng bắt đầu từ đó tôi liền nhận được kết quả.

  1. Sáu tiếng hồng danh đây nổi rõ nơi tai cũng như nơi tâm, khác hẳn sự mờ mờ lọt sót của tiếng “di” trong thời trước.
  2. Khi niệm ra tiếng, từ năm ngàn câu mỗi thời trở lên, môi lưỡi càng lúc càng nhại, càng chuyên, càng lanh. Khác hẳn sự trệ, môi cứng, lưỡi cứng của những ngày niệm khi xưa.
  3. Niệm ra tiếng với A-mi khỏe hơi hơn niệm ra tiếng của A-di khi trước, nhờ vậy mà mỗi thời niệm được lâu và nhiều.

Người chuyên niệm danh hiệu của Phật, tầng cấp đầu tiên là đến mức bất niệm tự niệm, hay niệm lực tương tục. Nếu khi niệm mà bị trệ, và tiếng Phật lại lờ mờ không nổi rõ nơi tâm thời khó mong được kết quả trên. Còn nếu trái lại thì mới có hy vọng đến đích.

Biết rằng niệm A-mi-đà được nhiều phần đúng với nguyên âm, nó sẽ đem đến cho mình cái mãnh lực bất tư nghị, diệt vô số kiếp tội thành đại thiện căn phước đức giống như pháp trì chơn ngôn (thần chú) của Mật tông mà Tổ Vân Thê đã phán. Nó sẽ đưa mình đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi tâm. Nhất là niệm A-mi-đà được khỏe hơi, nhờ đó nên được niệm lâu và nhiều. Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm. Và mức bất niệm tự niệm đây là phần bảo đảm vãng sanh Tịnh Độ cho người chuyên niệm. Tôi tin rằng niệm gần với nguyên âm, tức là gần đúng với thật danh của Đức Giáo chủ Cực Lạc, tất dễ được tương ứng và chóng nhận cảm thông với Phật. Và tôi đã tự cảm thấy có lẽ đúng như thế.

Tuy nhiên, trong kỳ kiệt thất 49 ngày ở tịnh thất của chùa Linh Sơn Cổ Tự, một hôm tôi bỗng nảy ra ý nghĩ: “Dẫu cho thiển trí bạc đức, tôi cũng là người tai mắt trong Tăng giới, và cũng có một phần uy tín đối với nhiều người. Rồi đến một ngày nào đó, chắc chắn sẽ có người tin tưởng theo làm theo, có nghĩa là họ sẽ niệm Nam mô A-mi-đà Phật. Nếu chỉ có một người như thế, chắc chắn sẽ có nhiều người khác thích làm như vậy. Cuối cùng, tậi sao người ta lại có bắt​ bụ̂c thay đổi thành A-mi đồng nghĩa với A-di? Hoặc còn nhiều người nghi vấn rằng Chúng ta nên biết niệm cái nết “Di” là vì cái nết “Di” để kỹ, và chí tâm niệm dễ hơn, và giúp cho niệm phật cái tâm khởi dễ hơn. Hoặc là cầu xin Lên Tâng chuyển Di thành Mi. Hoặc là nguyện nên biết rằng A-di-đà Phật hay A-mi-đà Phật đều là một, trên mặt đất, không khác nội lực và tầm tư.

Nếu gặp khuyết điểm nọ, chúng ta hãy tỉnh giác và tìm hiểu kỹ hơn. Đừng lỡ tin vào bất cứ thứ gì, mà hãy luôn theo tôn chỉ Phật để hành trì. Hãy tặng trọn tâm chúng ta cho đạo Phật, không để làm mất niệm tin. Bên cạnh đó, quả nhiên có nhiều người còn rơi vào tủi buồn, hoặc cảm thấy chán nản. Đừng làm như thế. Niệm Phật là chàng trai mà không bao giờ mệt mỏi, không hề biết chán nản.

Cuối cùng, hãy nhớ rằng mỗi người có quyền tự lựa chọn cách niệm Phật của mình. Không ai có quyền phán xét, chấp nhận hoặc không chấp nhận cách niệm Phật của người khác. Điều quan trọng là lòng chân tình, tâm chuyên tâm và lời khâm phục vô tận đối với Đức Phật. Niệm Phật là con đường giữa ta và Đức Phật, một con đường chúng ta chọn để hiểu rõ hơn về cuộc sống và khám phá bản thân mình. Hãy gửi tất cả trái tim chân thành của mình đến Đức Phật và niệm Phật với sự tôn trọng và lòng biết ơn.

Ngoài ra, đừng quên truy cập M & Tôi để tìm hiểu thêm về M & TôiPhật Pháp dành cho đời sống hàng ngày.