Lộ Bàng Thổ – Đất ven đường
- Canh Ngọ (1930 – 1990) và Tân Mùi (1931 – 1991) là hai năm Canh Ngọ và Tân Mùi. Mùi là ngôi vị của Can Ất, vị này sinh ra năng lượng Hỏa cho Thổ. Hỏa tạo hình cho Thổ, nhưng Thổ mới sinh ra còn yếu và không đủ sức để nuôi dưỡng mọi vật nên được gọi là “Lộ Bàng Thổ”.
- Canh Ngọ thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, làm mất khí sức đề kháng chống lại hung vận không bằng Tân Mùi. Vì Mùi ở vị trí Thổ chính nên kiên nhẫn và kiên trì hơn.
- Hỏa tạo nên hình dạng chắc chắn của Thổ, đất cứng. Tính cách quật cường, nhiệt tình và chính trực, nhưng lại không chín chắn để phân biệt rõ ràng thiện ác, thuận lợi hay không thuận lợi.
- Lộ Bàng Thổ dẫn đến đất rộng lớn và dài hẳn, cần có nước để cây cỏ mọc. Lộ Bàng Thổ trong việc nghiên cứu, học vấn tương tự như nước tưới cho Thổ trở nên hữu ích. Lộ Bàng Thổ thiếu khả năng hành động và thay đổi thời thế, nên thích hợp với vai trò là một nhà lý thuyết.
Thành Đầu Thổ – Đất đầu thành
- Mậu Dần (1938 – 1998) và Kỷ Mão (1939 – 1999) đều thuộc Thiên Can Thổ. Dần thuộc càn sơn, đất thành núi, do đó được gọi là “Thành Đầu Thổ”.
- Mệnh nạp âm Thành Đầu Thổ mang tính cách trung trực, chất phác, thích giúp đỡ người khác và trung thành (nếu mệnh số bình thường).
- Mệnh số hội tụ và cấu trúc tốt sẽ có khí thế khác biệt, núi là nơi của rồng và cọp. Những người có mệnh này mang tinh thần lớn với tư chất chính trực, xem thành bại làm thường chuyện. Dù trong thời kỳ loạn lạc hay thời kỳ bình thường, họ đều có thể sử dụng vai trò lãnh đạo để xây dựng công việc theo hướng thiện.
Ốc Thượng Thổ – Đất mái nhà – Ngói
- Bính Tuất (1946 – 2006) và Đinh Hợi (1947 – 2007) thuộc Hỏa. Tuất và Hợi đều là cửa trời (Thiên môn). Vì Hỏa ở trên cao, đất không sinh ra dưới thấp, nên được gọi là “Ốc Thượng Thổ”.
- Ốc Thượng Thổ là ngói trên mái nhà, để che chắn sương mù và tuyết mưa. Để làm thành ngói, đất cần được trộn với nước và luyện nung trong lò lửa.
- Những người mang nạp âm Ốc Thượng Thổ, dù có số tốt cũng phải trải qua nhiều khó khăn để thành công. Nếu đi con đường dễ dàng, thành công chỉ là thành công tạm thời và dễ vỡ như ngói chưa nung đã gặp mưa.
- Bính Tuất thuộc Thổ chính vị, sức chiến đấu dẻo dai và kiên cố hơn. Đinh Hợi, vì thuộc Thủy Thổ khắc Thủy, sức đề kháng không bằng Bính Tuất.
Bích Thượng Thổ – Đất trên vách
- Canh Tý (1960 – 2020) và Tân Sửu (1961 – 2021) thuộc Thổ. Sửu là vị chính của Thổ, và Tý là đất vượng của Thủy. Khi Thổ gặp Thủy, biến thành bùn, nên được gọi là “Bích Thượng Thổ”.
- Để ấp thành bức vách, bùn nhẵn mềm cần được dựa vào kèo cột. Nếu không có chỗ dựa, việc tạo thành bức vách sẽ khó khăn. Vì vậy, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ cần dựa vào người khác để thành công, làm quản lý hoặc người làm công việc thừa hưởng tốt, đứng vị trí chủ dễ thất bại.
- Tuy vậy, cũng có loại đất dính mạnh, khi phơi nắng trở nên cứng cáp và không cần phải dựa vào kèo cột. Do đó, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ cần trải qua nhiều kinh nghiệm mới để thành công.
- Vách được sử dụng để che gió và mưa, nên tư chất của người này thường rộng lòng và bao dung. Tuy nhiên, nếu mệnh nhiều hung sát, có thể dẫn đến hành động gian xảo và dễ bị tổn thương.
- Canh Tý thuộc Thổ chính vị, cứng cáp hơn. Tân Sửu, vì là Thổ chính vị, sức đề kháng cường tráng hơn.
Đại Dịch Thổ – Đất quán dịch lớn
- Mậu Thân (1968 – 2028) và Kỷ Dậu (1969 – 2029) đều thuộc Khôn là đất. Dậu thuộc Đoài là đầm nước. Chữ Dịch có một nửa chữ Trạch, thực tế phải gọi là “Trạch Thổ” mới đúng.
- Khôn là đất, Đoài là những vùng nước đầm (trạch). Sông đưa nước đi khắp nơi, đầm ao là nơi cá sinh sống phong phú. Đại Dịch Thổ tự nhiên tích súc, đất rộng sông sâu.
- Người mang nạp âm Đại Dịch Thổ, dù có mệnh tốt, thường đóng góp công lớn và có lợi cho mọi người. Tính cách luôn đồng lòng với việc làm thiện.
- Nếu mệnh có nhiều hung sát, việc làm nhân đạo của họ có thể bị phá hủy. Cả Thân và Dậu đều thuộc Kim, và Thổ sinh Kim, nên Mậu Thân và Kỷ Dậu đều kiên trì hơn và ít bối rối.
Sa Trung Thổ – Đất pha cát – phù sa
- Bính Thìn (1976 – 2036) và Đinh Tỵ (1977 – 2037) sinh trong năm Thìn và năm Tỵ. Vì Thổ sinh cục tràng ở Thân, nên ở Thìn là Mộ khố và ở Tỵ là Tuyệt. Bính và Đinh đều thuộc Hỏa. Hỏa của Bính và Đinh ở Thìn là Quan Đới, ở Tỵ là Lâm Quan. Thổ từ Mộ sinh ra Tuyệt và bị Hỏa sinh ra Thổ, vì vậy được gọi là “Sa Trung Thổ” (đất lẫn trong cát).
- Đất ở Thìn không phải là cát sa mạc mà là cát phù sa, do Thìn thuộc Thủy khố. Nếu gặp sông nước, cát tập trung và tạo thành bãi cát màu mỡ.
- Mệnh Sa Trung Thổ là đất pha cát, cát phù sa. So với Bính Thìn, mệnh Đinh Tỵ ít chất thủy hơn, vì vậy cát phù sa ít hơn và khô hạn hơn, hạn chế tác động của Hỏa vì Hỏa làm khô cạn đất.
- Sa Trung Thổ linh hoạt và giỏi làm ăn, tận dụng thời thế. Tính cách hai mặt, vừa anh hùng vừa gian xảo.
- Bính Thìn thuộc Thổ chính vị, cứng cáp hơn. Đinh Tỵ thuộc Hỏa, không đủ sức kiên trì như Bính Thìn. Đinh Tỵ uyển chuyển, khéo léo và mềm mại hơn so với Bính Thìn.