Mở đầu
Trong bản Kinh Bi Hoa kể về quá khứ, khi Phật Bảo Tạng còn làm Luân Vương, Bồ Tát làm Thái tử đầu tiên của Ngài và được gọi là Bất Thuấn. Sau khi Thái tử thề nguyện trước mặt Phật Bảo Tạng, Ngài đã trao cho Bồ Tát danh hiệu Quán Thế Âm. Hiện tại, Bồ Tát đang ở trong cõi Cực Lạc để giúp đỡ Phật A Di Đà hoằng pháp và hiến dâng chúng sinh. Sau này, Bồ Tát thừa kế vị trí của Phật A Di Đà và trở thành Phật với danh hiệu Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như Lai; cõi Cực Lạc được đổi tên thành Nhất Thế Trân Bảo Sở Thành Tựu. Về phần phước báo và sự ứng hóa của Bồ Tát, trong các kinh như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm và Đại Bi đều có nhắc đến.
-
Kinh Đại Bi Đà La Ni nói: “Nếu ai cúng dường và niệm danh hiệu của Bổn Sư ta là Phật A Di Đà, thì sẽ nhận được vô lượng phước, trừ đi vô lượng tội lỗi và khi qua đời sẽ được sanh về cõi Cực Lạc. Lúc ấy, Như Lai sẽ tiếp đón và xoa đầu kẻ đó, nói: ‘Đừng sợ hãi, vì đã được sanh về nước ta’.”
-
Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Ký nói: “Ai phát tâm vô thượng nhằm sanh về Cực Lạc và niệm danh hiệu Quán Thế Âm, đều được thấy cõi đó và thấy Phật A Di Đà cùng hàng ngàn Bồ Tát và Thanh Văn. Khi người đó nhìn thấy điều đó, sẽ cảm thấy vui mừng và hân hoan, hô to lên: ‘Nam Mô A Di Đà Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri!’ Khi đó, trong pháp hội có 84.000 chúng sinh cùng phát tâm vô thượng, hy vọng trồng căn tốt để được sanh về Cực Lạc.”
Quán Thế Âm Bồ Tát và 12 Nguyện Kỳ
Bồ Tát Quán Thế Âm có 12 nguyện kỳ được trình bày trong bản Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thập Nhị Đại Nguyện:
- “Nam mô hiệu viên thông, danh tự tại, Quán Âm Như Lai quảng phát hoằng thệ nguyện.”
- “Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai thường cư ở Nam Hải nguyện.”
- “Nam mô trụ Ta Bà, U Minh giới, Quán Âm Như Lai tầm thinh cứu khổ nguyện.”
- “Nam mô hàng tà ma trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện.”
- “Nam mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện.”
- “Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai thường hành bình đẳng nguyện.”
- “Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện.”
- “Nam mô vọng Nam nham, cầu lễ bái, Quán Âm Như Lai già tỏa giải thoát nguyện.”
- “Nam mô tạo Pháp thuyền, du khổ hải, Quán Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện.”
- “Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện.”
- “Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai Di Ðà thọ ký nguyện.”
- “Nam mô đoan nghiêm thân, vô tỷ toại, Quán Âm Như Lai quả tu thập nhị nguyện.”
Quán Thân Tướng Ðức Quán Thế Âm (Quán Thế Âm Quán)
A Nan, Vi Đề Hy! Sau khi đã thấy rõ Phật Vô Lượng Thọ, hãy quan tưởng tới Bồ Tát Quán Thế Âm. Vị Đại Sĩ này có thân cao tám mươi muôn ức na do tha do tuần, mặt trông như sắc vàng Diêm Phù Ðàn, đôi mắt giữa có tất cả bảy sắc bảo lấp lánh, chiếu ra tám muôn bốn ngàn loại quang minh. Mỗi loại quang minh có vô số vô cùng ngàn ngạch Hóa Phật. Mỗi Hóa Phật lại có vô số Hóa Bồ Tát trở thành hiện thân thị giả. Các Hóa Bồ Tát này biến hiện khắp mười phương thế giới. Tay của Bồ Tát giống như các bông sen hồng, có tám mươi ức tia sáng tỏa ra như dây chuỗi an nhiên, trong đó hiện ra tất cả các hình ảnh trang nghiêm. Bàn tay của Bồ Tát có năm trăm đường nét tươi đẹp như nét vẽ trên hình ấn. Mỗi đường nét có tám muôn bốn ngàn sắc, mỗi sắc lại có tám muôn bốn ngàn tia sáng nhẹ nhàng chiếu soi khắp mọi nơi. Bằng bàn tay quý báu này, Bồ Tát luôn tiếp dẫn chúng sinh qua các cõi. Chân Bồ Tát có hình ảnh thiên bức luân, khi Bồ Tát nhấc chân lên, từ hình thiên bức luân đó hóa hiện ra năm trăm ức đài sáng chói. Khi đặt chân xuống đất, có hàng ngàn hoa kim cương ma ni rơi rải khắp nơi. Trừ hai tướng nhục kế và tướng Vô Kiến Ðảnh, tất cả các tướng khác trên thân của Bồ Tát đều đầy đủ và xinh đẹp như Vô Lượng Thọ Thế Tôn. Đây là hình tượng sắc thân chấn thực của Bồ Tát Quán Thế Âm, thuộc môn quán thứ mười. Đoạn trên đã diễn tả chính xác hình dáng của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu “năm trăm Hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Như Lai” là chỉ rằng tất cả các Hóa Phật đều có đúng mười sáu tường cao và ba mươi hai tường như hình dáng của Thích Ca Mâu Ni. Các tường khác trên tay Bồ Tát biểu thị sự từ bi và hiện thân về công đức pháp. “Thiên bức luân” là hình dáng của bánh xe có ngàn cánh. Câu “trừ hai tướng nhục kế và tướng Vô Kiến Ðảnh là không bằng Phật” nhấn mạnh rằng quả nguyện của Bồ Tát chưa bằng Phật, nên hai tướng ấy phải kém hơn. A Nan! Nếu ai muốn quan tâm tới hình dáng của Bồ Tát Quán Thế Âm, hãy quan tưởng theo cách này. Người thực hiện việc này sẽ không gặp tai họa nào, được ứng nghiệp và tránh tội lỗi trong vô số kiếp sống. Chỉ nghe danh hiệu Bồ Tát đã đem lại vô lượng phước, huống chi là hiểu rõ về hình tượng thân này? Người nào muốn hiểu rõ Bồ Tát Quán Thế Âm, hãy bắt đầu từ tưởng nhục kế trên đồng đạnh, sau đó tưởng tới thiên quan và từng từng tướng khác, như tưởng thấy các đường nét trên bàn tay. Cách làm này được gọi là quán chánh. Nếu không hợp lý, là tà quán. Bài văn trên đã nhấn mạnh về phương pháp quán thực thiền. Bồ Tát Quán Thế Âm có lời nguyện tu tập để cứu khổ, nên chỉ cần nhắm tâm niệm danh hiệu đã có thể trừ tội, đạt được phước báo, trốn thoát khỏi tai nạn, vậy mà quán tưởng được hình thực như thế này, được gọi là tu thập môn quán.