Tiểu Sử Phật Thích Ca Mâu Ni

Tiểu Sử Phật Thích Ca Mâu Ni

TÓM TẮT LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI

Ngài sinh vào ngày rằm tháng tư năm 624 trước Công nguyên khi hoàng hậu Maya, mẹ của Ngài, đi qua khu vườn Lumbini trên đường trở về Devadaha từ kinh thành Kapilavastu. Ngài là một thái tử được gọi là Siddhārtha, con của vua Suddhodana thuộc dòng tộc Gotama của quốc gia Sakiya.

Ngay từ khi còn nhỏ, Ngài đã thể hiện sự thông tuệ phi thường và lòng từ bi vô tận. Ngài có bề dày kiến thức về võ thuật cũng như triết học và giáo lý. Cuối cùng, Ngài đã tìm đến mục tiêu cao cả là giác ngộ và giải thoát tuyệt đối cho tất cả chúng sinh.

Để ràng buộc Ngài, vua cha đã chọn công chúa Yasodharā làm vợ cho Ngài khi Ngài mới 16 tuổi. Khi Ngài 29 tuổi và vừa sinh con trai là Rahulà, Ngài đã rời khỏi kinh thành để xuất gia vào đêm mùng 8 tháng 2.

Sau sáu năm tìm kiếm thầy giáo và thực hành khổ hạnh mà không thành công, Ngài đã chọn con đường thiền định. Trong 49 ngày đêm ngồi im lặng dưới cây Assatha (Bồ Đề) ở làng Uruvela, Gaya, Ngài đã giác ngộ thành Phật, trở thành một bậc nhân loại hoàn thiện. Ngài có Tam minh, Lục thông, Trí tuệ phi thường biết tất cả mọi điều trong vũ trụ và lòng từ bi vô biên yêu thương tất cả chúng sinh. Khi đó, Ngài 35 tuổi.

Kể từ đó, Ngài đã đi khắp nơi để giảng dạy giáo lý giác ngộ và giải thoát này cho nhân loại và các vị thần. Rất nhiều vua, quan tướng, giáo sĩ Bà la môn, thương gia và cả người dân tầm thường đã theo Ngài làm đệ tử hoặc rời gia đình để xuất gia. Rất nhiều đệ tử của Ngài cũng đạt được giác ngộ phi thường.

Vào ngày rằm tháng 2 năm 544 trước Công nguyên, khi Ngài 80 tuổi, Ngài đã nhập Niết bàn. Sau lễ trà tỳ, nhiều vị thần đã tìm thấy hài cốt của Ngài và xây dựng đền thờ để tôn sùng những hài cốt này, một số trong số đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Thầy truyền thừa của Ngài đã tập hợp các lời dạy của Ngài thành ba tạng Kinh điển vĩnh cửu.

Ngày nay, sau bao nhiêu nỗi đau, tang tóc, chiến tranh và bạo lực, Liên Hiệp Quốc đã công nhận Phật giáo là một tôn giáo hòa bình và chọn ngày sinh của Đức Phật là một ngày tiêu biểu cho Tôn giáo và Văn hóa Thế giới. Vào năm 2000, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của Đức Phật được gọi là lễ hội Vesak tại trụ sở của Liên Hiệp Quốc. Nhiều nhà trí thức nổi tiếng trên thế giới đã tin theo đạo Phật.

Các đệ tử của Đức Phật luôn nỗ lực duy trì sự tôn kính tuyệt đối và vô hạn đối với Đức Phật và coi sự tôn kính đó là tài sản quý giá nhất để mang theo qua nhiều kiếp sau. Chính nhờ sự tôn kính tuyệt đối này mà chúng ta nhận được vô số phước báo để tu hành giác ngộ. Mỗi ngày quỳ xuống lễ Phật đều mang lại hạnh phúc vô tận cho chúng ta.

Ba Khôn Ngoan Tối Thượng

Ngài đã sinh vào đêm rằm tháng 5 năm 624 trước Công nguyên khi hoàng hậu Maya đang đi qua công viên Lumbini trên đường trở về quê hương Devadaha từ kinh thành Kapilavastu. Ngài là một Vương tử tên là Siddhārtha. Cha Ngài là Suddhodana, Vua thuộc bộ tộc Sakya.

Từ khi còn nhỏ, Ngài đã thể hiện sự thông tuệ phi thường và lòng từ bi không giới hạn. Ngài có tài năng về võ thuật cũng như kiến thức về tất cả các lĩnh vực bao gồm triết học, tôn giáo. Và ưu tiên hàng đầu của Ngài là tìm kiếm giác ngộ hoàn toàn và giải thoát cho tất cả chúng sinh.

Để ràng buộc Ngài, vua cha đã lấy công chúa Yasodharā làm vợ cho Ngài khi Ngài mới 16 tuổi. Vào đúng lúc Ngài 29 tuổi và con trai Rahula vừa mới sinh, Ngài đã rời xa thành phố để trở thành một vị sư trong đêm ngày mùng 8 tháng 3.

Sau sáu năm tìm kiếm thầy giáo và tu hành khổ hạnh mà không thành công, Ngài đã chọn con đường thiền định. Sau 49 ngày và đêm ngồi yên lặng dưới cây Bodhi ở Gaya, làng Uruvela, Ngài đã giác ngộ, đạt đến sự tỉnh thức cao siêu, biết tất cả mọi thứ trong vũ trụ và có lòng từ bi vô tận yêu thương tất cả chúng sinh. Khi đó, Ngài đã 35 tuổi.

Kể từ đó, Ngài đã đi khắp nơi để truyền bá giáo lý giác ngộ và giải thoát này cho con người và các vị thần. Rất nhiều vua chúa, tướng công, nhà tu Bà-la môn, thương gia và cả người binh sĩ đều đã theo Ngài làm đệ tử hoặc nhường tử tục và gia nhập chùa. Rất nhiều đệ tử của Ngài cũng đạt được giác ngộ phi thường.

Vào ngày rằm tháng 2 năm 544 trước Công nguyên, khi Đức Phật 80 tuổi, Ngài nhập Niết bàn. Sau cuộc thanh tịnh, rất nhiều hài cốt của Ngài đã được tìm thấy và đã xây dựng các ngôi chùa để thờ phụng những hài cốt này, trong đó có những ngôi chùa vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các vị Tăng đã biên soạn những lời dạy của Ngài thành ba bộ Kinh để truyền dạy mãi mãi.

Ngày nay, sau bao nhiêu đau khổ, tang thương, chiến tranh và bạo lực trong giới nhân loại, Liên Hiệp Quốc đã công nhận Phật giáo là một tôn giáo hòa bình và chọn ngày sinh của Đức Phật là một ngày đặc biệt đại diện cho các tôn giáo và văn hóa trên thế giới. Vào năm 2000, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức lễ hội Vesak tại trụ sở của mình để tôn vinh ngày sinh của Đức Phật. Rất nhiều nhà trí thức nổi tiếng trên khắp thế giới đã tin theo đạo Phật.

Các đệ tử của Đức Phật luôn nỗ lực để duy trì sự tôn kính tuyệt đối và không gian vô tận trong lòng dành cho Đức Phật. Chúng ta xem sự tôn kính này là tài sản quý giá nhất của chúng ta, mà chúng ta sẽ mang theo qua nhiều kiếp sau. Nhờ vào sự tôn kính tuyệt đối cho Đức Phật, chúng ta nhận được vô số phước báu để tiến đến giác ngộ. Mỗi ngày, quỳ xuống trước bức tượng Phật là một niềm hạnh phúc vô tận đối với chúng ta.

Tổ truyền thông

Duc-Phat-Thich-Ca

SAKYAMUNI-BUDDHA